Kế hoạch Trận_Midway

Đế quốc Nhật Bản

Hình đảo san hô Midway, vài tháng trước trận đánh.

Tương tự như nhiều kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, kế hoạch trận đánh của Đô đốc Yamamoto Isoroku rất phức tạp và khó hiểu. Tin rằng người Mỹ đã mất tinh thần vì phải chịu nhiều thất bại trước người Nhật trong vòng sáu tháng trước đó, Yamamoto cảm thấy rằng mánh khóe cần thiết phải nhử được những phần chính của hạm đội Hoa Kỳ vào trong một tình huống đặc biệt nguy hiểm. Hiểu theo nghĩa thường, ông chia các lực lượng của mình theo kiểu ở quy mô rộng nhất khiến cho chúng không bị người Mỹ phát hiện trước trận đánh có tính chất quyết định. Vì vậy, Yamamoto dàn các lực lượng tàu chiến và tuần dương hạm của mình và lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó đô đốc Chuichi Nagumo thành một vệt dài hàng trăm dặm; kiểu này nhằm để đối đầu với các lực lượng bất kỳ nào của hạm đội Mỹ có ý định tới cứu trợ cho Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã tấn công làm cho chúng bị yếu đi.

Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau. Ví dụ, Nagumo không có được khả năng trinh sát từ các máy bay trinh sát do các tàu tuần dương và thiết giáp hạm, cũng như thiếu yểm trợ phòng không từ các tàu chiến thuộc các thê đội phía sau (gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ, năm thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu tuần dương hạng nhẹ), và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.

Kế hoạch của Yamamoto cũng xác nhận thông tin tình báo cho rằng chiếc USS EnterpriseUSS Hornet, thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 16 là những chiếc tàu duy nhất đang hoạt động thuộc các lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ ở thời điểm đó. USS Lexington đã bị đánh chìm và USS Yorktown bị hư hỏng nặng (và họ tin rằng nó đã chìm) tại trận biển Coral chỉ một tháng trước, và người Nhật tin rằng chiếc USS Saratoga đang được sửa chữa ở bờ biển phía tây nước Mỹ sau khi bị dính ngư lôi làm hư hại.

Lực lượng tấn công tàu sân bay của Nhật gồm 248 máy bay trên bốn tàu sân bay (60 trên Akagi, 74 trên Kaga, 57 trên Hiryū và 57 trên Sōryū). Máy bay tấn công chủ lực của tàu sân bay Nhật Bản là máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 "Val" và máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate". Máy bay chiến đấu trên tàu sân bay là chiếc Mitsubishi A6M "Zero" có vận tốc nhanh và rất cơ động.

Lực lượng tàu sân bay của Nhật có một số thiếu sót về phòng thủ: pháo phòng không của tàu chiến Nhật Bản và các hệ thống điều khiển hỏa lực liên quan có một số thiếu sót về thiết kế và cấu hình làm hạn chế hiệu quả của chúng. Đội tuần tra không quân chiến đấu (CAP) của Nhật bao gồm quá ít máy bay tiêm kích và bị cản trở bởi một hệ thống cảnh báo sớm không đầy đủ (các tàu chiến Nhật khi đó đều không có radar). Liên lạc vô tuyến kém với máy bay tiêm kích cũng ức chế khả năng chỉ huy và kiểm soát hiệu quả của CAP. Các tàu chiến hộ tống của các tàu sân bay đã được triển khai như các tàu trinh sát ở vị trí xa, không phải là các tàu hộ tống phòng không chạy ở gần tàu sân bay, và chúng cũng không có nhiều pháo phòng không.

Hoa Kỳ

Ba tháng trước Trận Trân Châu Cảng, bộ phận trinh sát vô tuyến của Cơ quan Tình báo Hải quân Hoa Kỳ phát hiện người Nhật sử dụng một bộ mật mã mới, gọi là JN-25B. Tuy nhiên do tính chất cực kỳ phức tạp của JN-25B nên họ chưa giải được.[11]

Ngày 21 tháng 4 năm 1942, một nhóm mã thám mật danh Station Hypo thuộc Cơ quan Tình báo Hải quân Hoa Kỳ, bao gồm nhiều nhà ngôn ngữ học, toán học, dưới sự lãnh đạo của Hải quân thiếu tá Joseph Rochefort, làm việc trong một căn hầm bí mật nằm sâu dưới lòng đất đảo Hawaii đã giải được bộ mật mã. JN-25B sử dụng các bài thơ cổ từ thế kỷ thứ 10 ở Nhật làm bộ khung cho mật mã. Tiếp theo, họ pha trộn nó với một số ngôn ngữ địa phương - trong đó có những thổ ngữ không còn được nhiều người Nhật sử dụng. Tất cả đều biến thành những con số nhị phân mà nếu giải theo phương pháp toán học bình thường thì phải mất 18 tỉ lần mới có 1 lần giải được vì mỗi bản tin truyền đi lại có những chìa khóa giải mã khác nhau.[11]

Trong tất cả những bản tin thu được, nhóm Station Hypo đặc biệt chú ý đến một điện văn được ký bởi Đô đốc Yamamoto Isoroku, cha đẻ của cuộc tập kích Trân Châu Cảng. Kết quả giải mã bản điện văn cho thấy Yamamoto Isoroku ra lệnh điều 4 tàu sân bay với 248 Máy bay, 2 Thiết giáp hạm, 15 Tàu khu trục cùng 16 máy bay cất hạ cánh dưới nước đến một địa điểm được gọi là AF.[11]  

Khi bản điện văn gửi về Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Chester W. Nimitz, Tổng tư lệnh cùng các tướng lĩnh trong Bộ Chiến tranh Mỹ ở Washington đều cùng suy luận rằng AF có thể là một mục tiêu tại phía nam Thái Bình Dương, chẳng hạn như đảo Port Moresby, quần đảo Nouvelle-Calédonie hay Fiji, thậm chí là quần đảo Hawaii hoặc Bờ Tây Hoa Kỳ.[11]

Cũng có ý kiến cho rằng người Nhật đã biết phía Mỹ giải được bộ mật mã JN-25B nên họ tung hỏa mù nhằm đánh lạc hướng để thực hiện một đòn tấn công khác với mức độ ghê gớm hơn cuộc tập kích vào Trân Châu Cảng. Chưa hết, cấp trên của Đô đốc Nimitz, tại Washington là Đô đốc Ernest King, thông qua đơn vị mã thám OP-20-G của riêng mình, đã khẳng định AF là quần đảo Quần đảo Aleut.[11]

Tuy nhiên, Thiếu tá hải quân Joseph Rochefort lại không đồng ý với những suy luận ấy bởi lẽ với nhiều mục tiêu như vậy, Hải quân Hoa Kỳ không đủ khả năng để bảo vệ tất cả cùng một lúc. Để có thể thuyết phục cấp trên thay đổi quan điểm về hướng tấn công - cũng như có thể chặn đứng âm mưu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, Joseph Rochefort phải chứng minh AF là gì.[11]

Ngày 6 tháng 5 năm 1942, trong quá trình theo dõi các tín hiệu vô tuyến được truyền đi từ Hải quân Đế quốc Nhật Bản, nhóm Station Hypo thu được một bản tin, phát đi từ một máy bay trinh sát lúc ấy đang bay gần Đảo Midway. Trong bản tin đã được mã hóa bằng bộ mã JN-25B, Thiếu tá Joseph Rochefort nhận ra rằng chữ AF được lặp lại 2 lần và điều này đã khiến ông nghi ngờ đảo Midway chính là AF. Để chắc chắn, Joseph Rochefort giăng một cái bẫy bằng cách ra lệnh cho Jasper Holmes, sĩ quan hải quân trong nhóm Station Hypo gửi một công điện về Trân Châu Cảng theo đường dây cáp ngầm dưới biển, nội dung cho biết nguồn nước ngọt dùng trong sinh hoạt ở đảo Midway đã bị hỏng, và tình hình thiếu nước đang bắt đầu diễn ra trầm trọng. Chỉ 3 tiếng đồng hồ sau, một bản tin từ Bộ Hải quân Nhật Bản đã được mã hóa JN-25B gửi hạm đội Nhật ở Thái Bình Dương: “AF đang gặp phải vấn đề khó khăn trong việc cung cấp nước ngọt. Lực lượng tấn công cần chú ý và lập sẵn kế hoạch về chuyện này”. Đây là cơ sở chính xác nhất để khẳng định AF chính là Đảo Midway.[11]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Midway http://www.bartco2p.com/midway.htm http://www.historyanimated.com/MidwayPage.html http://www.im2db.com/title/tt0074899/ http://www.shatteredswordbook.com/ http://www.ww22db.com/battle_spec.php?battle_id=6 http://www.ww2incol2or.com/gallery/movies/midway_t... http://www.history.navy.mil/photos/events/wwii-pac... http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/japan/... http://www.centu2ryinter.net/midway/appendix/appen... http://ibiblio.org/hyperwar/USN/USN-CN-Midway/USN-...